THỨ BA, NGÀY 07 THÁNG 05 NĂM 2024 12:12

Sự im lặng cần phải được phá dỡ

22/12/2016 | 08:28
 
Ảnh minh họa.
 
Thủ phạm phần lớn là người quen
 
Hơn 1000 trường hợp xâm hại tình dục trẻ em mỗi năm = trung bình mỗi ngày 3 trẻ em bị xâm hại tình dục được báo cáo; 4%-13,35% phụ nữ đã kết hôn có trải nghiệm tình dục không mong muốn với chồng trong 12 tháng trước khảo sát; Khảo sát hơn 2.000 phụ nữ và trẻ em gái ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh: 87% đã từng bị quấy rối tình dục ở khu vực công cộng và trên các phương tiện giao thông công cộng… là những con số khiến nhiều người giật mình. 
 
Trái với quan điểm cho rằng phụ nữ và trẻ em gái có thể tự bảo vệ mình bằng cách hạn chế giao du với người lạ, số liệu thống kê cho thấy 73% thủ phạm là người quen, trong đó 10% là cha đẻ hoặc cha dượng. Thủ phạm gồm cả những người được cho là đáng tin cậy như người cao niên, người có uy tín, giáo viên, những người nổi tiếng hay cả những người trong hệ thống thực thi pháp luật. Ngoài ra, phần lớn các vụ BLTD cũng xảy ra ở những địa điểm thường được coi là an toàn như trường học, công sở hay chính trong nhà của nạn nhân. 
 
Bà Astrid Bant, Trưởng Đại diện UNPFA tại Việt Nam, cho biết: “BLTD không dễ xác định, đặc biệt BLTD trong các mối quan hệ tình cảm gần gũi thậm chí còn khó được báo cáo hơn vì nó được che giấu bởi các khuôn mẫu giới và văn hóa. Nam giới thường nghĩ rằng họ có “quyền” kiểm soát thân thể và tình dục của người phụ nữ”.
 
BLTD dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về sức khoẻ thể chất, tinh thần và cả tài chính cho nạn nhân. Nhiều nạn nhân và gia đình đã phải vật lộn với việc thay đổi sinh kế do phải chuyển nơi sinh sống để tránh bị kỳ thị. Thậm chí, không ít người đã phải tìm đến cái chết để thoát khỏi ám ảnh và bế tắc sau khi bị bạo hành tình dục.
 
 
Ảnh minh họa.

Đừng để nạn nhân thành "tội nhân" do các định kiến mang tính bất bình đẳng giới

Bà Hoàng Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Sáng kiến, Sức khỏe và Dân số cho biết: “Chúng ta chỉ thường nghĩ đến bạo lực như là những hành vi sử dụng sức mạnh, gây ra các tổn thất về thể chất, kinh tế và tinh thần có thể nhìn thấy và đo lường. Cách nhìn hạn hẹp này vẫn còn được sử dụng trong luật pháp. Thực tế, một phần rất lớn các hành vi bạo lực và hậu quả là rất khó nhìn thấy, khó đo lường, thậm chí vô hình và vì thế không được thừa nhận. Sự vô hình và không được thừa nhận này càng nghiêm trọng trong bạo lực tình dục. Nhiều hành vi bạo lực bị ‘vô hình hóa’, nhiều nhóm nạn nhân cũng trở nên ‘vô hình’ thậm chí trở thành ‘tội nhân’ do các định kiến mang tính bất bình đẳng giới, không thừa nhận sự đa dạng trong văn hóa, đạo đức và cả luật pháp”.

Rõ ràng, thực trạng BLTD đối với phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam vẫn chưa được phản ánh đầy đủ và giải quyết hiệu quả. Theo các chuyên gia, tình trạng này xuất phát từ những rào cản thể chế, văn hoá và xã hội. 
 
Về mặt thể chế, quy trình tố tụng và thực thi pháp luật chưa bắt kịp với những thay đổi nhanh chóng của xã hội nên chưa thực sự giải quyết BLTD một cách có hiệu quả. Mặc dù đã có nhiều quy định tiến bộ về pháp luật để phòng ngừa và trừng phạt bạo lực, nhưng trong nhiều trường hợp, sự chậm trễ của cơ quan hành pháp, thái độ bàng quan, dung túng của cán bộ công quyền đã khiến bạo lực và lạm dụng tình dục bị xem nhẹ hoặc rơi vào im lặng. Ngoài ra, quy trình tố tụng thiếu chặt chẽ và thiếu nhạy cảm thậm chí còn khiến nhiều nạn nhân dường như bị bạo lực và lạm dụng thêm nhiều lần nữa. Bên cạnh đó, các quy định về thông tin và đạo đức nghề nghiệp chưa được thực hiện và giám sát nghiêm túc khiến không ít tờ báo phơi bày, soi mói và khai thác nhiều chi tiết riêng tư khiến nạn nhân trở thành tội nhân trong dư luận xã hội.
 
Từ góc độ văn hoá, tư tưởng lạc hậu của một bộ phận người dân khiến nỗi đau BLTD vẫn còn nhức nhối. Chịu sức ép vô hình từ những quan niệm sai lầm về tình dục, về nam tính/nữ tính cùng với những định kiến và khuôn mẫu giới bất bình đẳng, cộng đồng, gia đình và bản thân các nạn nhân đôi khi cũng chấp nhận cam chịu. Nạn nhân phải tự tìm cách đương đầu với hậu quả bạo lực, lạm dụng và quấy rối tình dục hơn là lên tiếng đòi lại công bằng và kết nối với nhau để đấu tranh chống lại những vấn nạn đó. 
 
Về mặt xã hội, nhiều nhóm yếu thế vẫn tiếp tục chịu thiệt thòi và dễ bị bạo hành tình dục nhưng lại ít nhận được sự hỗ trợ. Bất chấp những tiến bộ trong hệ thống chính sách và những thay đổi kinh tế to lớn, phụ nữ vẫn thuộc về nhóm yếu thế ở Việt Nam, vị thành niên và trẻ em, nhất là các em gái thậm chí còn yếu thế hơn. Sự yếu thế không nằm ở thể lực của họ mà chính là ở việc họ bị trói chặt bởi các quan niệm bất bình đẳng về giá trị giới, đặc biệt là các trói buộc về đạo đức. Là nạn nhân nhưng nhóm này bị đơn độc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nhân phẩm, thân thể và chỗ đứng của mình trong xã hội. Yếu thế và dễ bị tổn thương nhất là các nhóm phụ nữ và trẻ em nghèo, các nhóm thiểu số về tình dục và giới, những người di cư hay các nhóm thiệt thòi như phụ nữ hành nghề mại dâm, phụ nữ nhiễm HIV và con gái của họ... Bị gạt ra ngoài lề xã hội bởi sự kỳ thị và phân biệt đối xử, nhân phẩm và số phận của họ càng dễ bị chà đạp và cơ hội để họ lên tiếng đòi công bằng cho mình càng hiếm hoi hơn.

Nạn nhân của bạo lực cần được trao cơ hội để được lên tiếng và được lắng nghe
 
Bà Astrid Bant khẳng định: “BLTD đối với phụ nữ và trẻ em gái không phải một căn bệnh mà chúng ta cần phải tìm cách chữa. Vấn nạn này xuất phát từ quan niệm của nam giới và trẻ em trai về phụ nữ và trẻ em gái. Đã đến lúc chúng ta phải làm việc cùng nhau, Chính phủ, xã hội dân sự và toàn thể xã hội, để tấn công lại các định kiến giới và các thái độ ưu ái nam giới phổ biến, cho dù chúng đã được dung dưỡng qua nhiều thế hệ. Chúng ta phải thay đổi các cấu trúc quyền lực để đảm bảo rằng có sự bình đẳng thực sự giữa phụ nữ và nam giới. Đấu tranh cho bình đẳng giới phải trở thành một vấn đề của nam giới và trẻ em trai”. 

Bà Hoàng Tú Anh nhấn mạnh: thay đổi các diễn ngôn về bạo lực bao gồm cả bạo lực tình dục phải là câu chuyện của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội. Các nhà giáo dục và những người làm truyền thông đóng vai trò then chốt trong thành công của sự thay đổi này. Các nạn nhân của bạo lực cần được trao cơ hội để được lên tiếng và được lắng nghe. Chính phủ cần xem xét lại các văn bản pháp luật và chính sách để đảm bảo sự thực thi công bằng xã hội trong đó có công bằng tình dục. Khẩu hiệu của chương trình mục tiêu phát triển bền vững ‘Không ai bị bỏ lại đằng sau’ chỉ có thể đạt được khi chúng ta thực hiện được sự công bằng này.
 
Trong số 322 vụ BLTD được đưa tin trên báo từ 2011-2016:
 
21,2% nạn nhân dưới 10 tuổi, trong đó có những em bé chỉ mới 2 tuổi. 
 
60% nạn nhân từ 11-25 tuổi
 
Gần 5% nạn nhân trên 40 tuổi, trong đó có những cụ bà đã 85 – 86 tuổi. 
 
32% là các vụ  bạo lực kép: nạn nhân bị cưỡng hiếp, cướp tài sản, bị hành hung, thậm chí bị giết. 
 
13,5% là các vụ cưỡng hiếp tập thể.

Minh Châu/GĐ&TE

Tổng thư ký Liên hợp quốc: Dải Gaza đang trở thành 'nghĩa địa cho trẻ em'

Tổng thư ký Liên hợp quốc: Dải Gaza đang trở thành "nghĩa địa cho trẻ em"

5 tháng trước

Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres hôm 6/11 cho biết việc bảo vệ dân thường "phải là điều tối quan trọng" trong cuộc xung đột giữa Israel và phong trào Hamas của Palestine, đồng...